Năm tháng tĩnh lặng, kiếp này bình yên
Phan_10
Mùa đông – Hồ nước đóng băng
Có lẽ, trước khi bạn nhìn thấy hồ Kanas vào mùa đông, bạn đã từng ấp ủ ảo tưởng về cảnh tượng băng tuyết vô cùng vô tận. Khi bạn thực sự bước gần đến nó, nhìn rõ ràng dáng vẻ hồ nước mùa đông, linh hồn chấn động sẽ nói với bạn rằng, hồ nước mang trong mình vẻ băng thanh ngọc khiết của chốn nhân gian đến nhường nào. Đây là hồ nước nguyên thủy của năm tháng, là hồ nước chân thật nhất của nhân sinh, cũng là hồ nước vĩnh hằng của người Đồ Ngõa.
Không cần hỏi, đây là lần đâu bạn đến, hay là lần trùng phùng. Cũng không cần hỏi, đây là một chuyến ra đi, hay là lần trở về. Cho dù là cảnh tượng trong mộng, cũng phải cảm ơn cơ duyên của giấc mộng này. Cho dù là đi lướt qua, cũng phải trân trọng thời khắc gặp gỡ ngắn ngủi này.
Những đỉnh núi sáng trắng như nước, những mặt hồ băng tuyết đóng kín, toàn bộ hồ Kanas đều bị lớp châu ngọc bao bọc, trong không gian bao la, lộ vẻ trầm tư khôn xiết. Không có vẻ quyến rũ của nước chảy, không thấy vẻ đung đưa của hoa núi, trước mắt là băng tuyết ngợp trời giá buốt, sắc điệu thanh tịnh không tranh cầu. Dưới hồ băng dày cộp, ẩn chứa một truyền thuyết liên quan đến thủy quái của hồ. Giống như ký ức xa xưa, cùng những câu chuyện cổ của người Đồ Ngõa, hết thảy đã chìm sâu xuống đáy hồ. Tựa như phá vỡ tầng băng này là có thể lấy được nguồn nước sinh mệnh bất tận. Thời gian này chỉ tạm thời phong kín nó, đợi đến khi xuân ấm hoa nở, vạn vật sinh sôi, bạn sẽ phát hiện ra, hạnh phúc hóa ra giản đơn đến thế.
Trong thế giới bị tuyết trắng bao phủ còn có một sự ấm áp không bị đóng băng, đó là cuộc sống nhiệt thành, tình cảm nồng cháy của người Đồ Ngõa. Họ vung những chiếc roi thần của dân tộc, thúc nhanh vó ngựa lao qua sự tĩnh lặng của đất trời, một bầu rượu sữa là có thể ủ ấm linh hồn lạnh giá. Tổ tiên của họ là những anh hùng rong ruổi biên cương, về sau chuyển đến vùng tịnh thổ nhân gian này, trở thành những ẩn sĩ chốn núi sâu vực tuyết. Họ đem sinh mệnh giao phó cho bầu trời Kanas, từ đây về sau, hiền hòa phẳng lặng chính là tư thế của cuộc sống, ung dung chính là tâm tình vĩnh hằng.
Tuyết rơi không một tiếng động, hồ Kanas hết thảy long lanh trong vắt. Vì mặt hồ thuần túy này, vì trái tim băng khiết trong bình ngọc này, biết bao người đã đi đêm về hôm, lặn lội tìm kiếm trong mưa gió bão bùng. Bạn đi theo những dấu chân của người đi trước, suốt chặng đường rưng rưng cảm động, rồi lại truyền sự xúc động cho những người đến sau. Mà người Đồ Ngõa chất phác, nhìn những khách đến rồi lại đi, trước sau vẫn bình tĩnh như lúc ban đầu, không vì một ai mà thay đổi câu chuyện về Kanas.
Trong hồ nước ngưng đọng ấy, bạn có thể nhìn thấy mặt hồ nơi đáy trái tim mình đang hối hả chảy trôi. Có một con suối nguồn đang chảy về phía mùa xuân. Có một ngôi nhà, đang tồn tại ở vùng đất hạnh phúc.
Đi qua hồ Kanas bốn mùa, cùng trải nghiệm tình cảm suốt bốn mùa với hồ nước, đời người cũng vì một lần giao hòa tươi đẹp mà chân thực này, mà trở nên tràn đầy sắc màu kỳ ảo mê ly. Hãy tin chắc rằng, chỉ cần có một hồ nước, thì chốn tịnh thổ nhân gian Kanas này sẽ không bao giờ biến mất, người Đồ Ngõa cũng vĩnh viễn giữ được quê nhà tự nhiên của mình. Vậy thì, hãy lựa chọn rời đi một cách ung dung thanh thản. Nhiều năm về sau, nếu như lại đến nơi này, thứ hồ Kanas trao cho bạn, vẫn là phong thái tinh khiết của ngày hôm qua.
Hồ Thanh Hải xanh thăm thẳm
Vì nghe thấy gió mát mời gọi, hay vì nhìn thấy mây trắng vẫy tay, mà tôi đã gặp gỡ hồ Thanh Hải như thế. Lúc này, không chỉ là rung động sững sờ, mà hơn nữa còn là cảm giác quen thuộc đến điếng lòng. Đắm chìm trong màu xanh thăm thẳm, hun hút, thực sự cảm nhận được vẻ đẹp của nhân sinh, sự quyến rũ của tự nhiên.
Hồ Thanh Hải nằm trong lòng bồn địa Thanh Hải, phía đông bắc tỉnh Thanh Hải, hình thành do sự đứt gãy địa tầng giữa núi Đại Thông, núi Nhật Nguyệt và phía nam núi Thanh Hải. Diện tích hồ vào khoảng 29661 kilômét vuông, hồ nằm ở độ cao 3196 mét cách mặt nước biển, là hồ nước mặn lớn nhất đại lục Trung Quốc.
Hồ Thanh Hải sâu thẳm mà tinh khiết, nó cam tâm tình nguyện rũ bỏ phồn hoa, âm thầm gìn giữ vùng đất xa xôi này. Tránh xa huyên náo ồn ào, không phải để ẩn đi vẻ đẹp của mình, cũng không phải sợ thế nhân quấy nhiễu, mà chỉ là yên tĩnh ở trên cao nguyên, lấy núi tuyết làm khung cốt, mượn trời xanh làm xiêm y, giữ lại cho thiên nhiên mái nhà nguyên thủy và thuần túy nhất.
Năm xưa, khi Văn Thành công chúa xa xôi ngàn dặm đến Tây Tạng, lúc tới núi Nhật Nguyệt, quay đầu chẳng nhìn thấy Trường An, nhìn sang phía Tây bốn bề hoang vu lạnh lẽo. Những giọt nước mắt nhớ quê nhà của nàng, rơi xuống lòng sông, mà điểm cuối của dòng sông ấy, chảy thẳng vào lòng hồ Thanh Hải. Đến đây cùng với một truyền thuyết đẹp, trong trái tim tôi chất chứa thêm một nỗi xúc động dịu dàng, rất muốn biết, nàng công chúa Đại Đường bị gả chồng đến nơi tha hương ấy, đi qua mây nước ngàn năm, nàng có hạnh phúc không?
Bước giữa làn sóng như lụa gấm sắc vàng của hoa cải dầu, hương thơm lãng đãng vương vấn khắp trời. Những cơn gió mát đã dùng bút mực linh hoạt, phác nên một bức tranh hoành tráng giữa non nước tú lệ của hồ Thanh Hải. Hân hoan dạo bước trong khung cảnh ấy, tắm dưới cơn mưa cánh hoa màu vàng rực, và thả hồn bồng bềnh giữa vạn khoảnh sóng nước hồ xanh. Bầu trời xanh thăm thẳm ấy, khiến người ta nguyện đem trái tim nhuốm đầy phong trần của mình dìm sâu trong đó, rồi lại với lên, để nó trong vắt vô trần.
Đến hồ Thanh Hải, cái bạn theo đuổi tìm kiếm không phải là tình thơ ý họa, mà là những phong tục tập quán hết sức chất phác hồn nhiên. Những người mục dân hồn hậu đuổi bầy dê bầy cừu, những bóng dáng trôi dạt như mây, nhởn nhơ giữa thảo nguyên mênh mông vời vợi. Lều trướng chi chít như bàn cờ là mái nhà che mưa che gió cho người dân du mục. Khi nhìn núi tuyết, từ lâu nó đã biến giấc mơ tươi đẹp trở thành băng giá. Bầu trời như sa xuống sát mặt đất, dường như chỉ cần tùy ý giơ tay, là có thể nắm giữ được mảnh gấm lụa xanh biếc ấy.
Đây là quê hương của tâm linh, xuyên qua hành lang của thành phố, đi qua non nước xa vời, là để kiếm tìm sự thanh tịnh của hồ nước. Ngay đến hơn mười loài chim quý như ngỗng đầu sọc, chim mòng biển, mòng biển đầu nâu, cốc đế… cũng tụ lại thành đàn, làm tổ trên đảo chim. Chúng tuân theo quy luật của tự nhiên, di trú từ phương Nam sang phương Bắc, nhưng vẫn không quên an cư lạc nghiệp ở hồ Thanh Hải, đời đời nối tiếp. Hễ nhìn mặt hồ mênh mông như vô tận, núi tuyết trắng xóa soi bóng, ngắm bầy cá tung tăng bơi lội, muôn chim tung cánh vút bay, mặc cho ngày tháng trôi qua, vùng tịnh thổ này mãi mãi thuộc về chúng ta. Nơi đây cất giữ những giấc mơ và những giấc mơ ấy lại truyền hạnh phúc đến cho từng người đi đường ngang qua.
Bất cứ ai đặt chân lên mảnh đất hồ Thanh Hải này đều đã coi nơi đây là nhà của mình. Thong thả cưỡi ngựa, cưỡi bò Yak, chầm chậm dạo chơi trên thảo nguyên thênh thang, thả trôi những suy nghĩ thanh tịnh. Nghe nói, ngựa sinh ra ở vùng hồ Thanh Hải đã sớm nổi tiếng từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, còn có tên là “Tần mã” (ngựa Tần). Thời Tùy Đường, nơi đây còn sản sinh ra rất nhiều loài ngựa quý. Chúng được Bá Nhạc là người có con mắt tinh đời tuyển chọn, đưa đi, từ đó về sau, rong ruổi biên cương, vạn dặm tung vó, ngạo nghễ nhìn gió mây. Những chú ngựa dạo chơi trên thảo nguyên ngày nay đã bớt tính nóng nảy của ngày trước, lại thêm phần thuần hóa và hiền lành. Chúng hứng chí dạt dào, dừng vó chậm bước, im lặng ngắm vẻ đẹp thâm trầm của hồ Thanh Hải, lắng nghe tiếng vọng của thời gian.
Bước vào lều vải của mục dân, cảm nhận nhân tình tập tục của vùng đất này. Người dân nhiệt tình mang trà sữa, phô mai, rượu đại mạch ra mời du khách nếm thử. Từng đôi mắt trìu mến, thuần khiết dường như thấu hiểu tâm ý của bạn. Ở nơi này, bạn sẽ quên mất mình là khách qua đường, mà chỉ chìm đắm trong sự ấm áp chân thực, cùng chia sớt niềm vui với mục dân. Và một câu chuyện đã vô tình được ấp ủ trong thời gian chung sống, rồi lại bị tuế nguyệt cất giấu trong cuốn sách giản dị của hồ Thanh Hải, để cho bạn lật giở đọc một cách bình thản.
Bắt đầu từ năm 2002, từ tháng 7 đến tháng 8 hằng năm, tỉnh Thanh Hải đã tổ chức giải đua xe đạp quanh hồ Thanh Hải. Đây là giải đấu hàng đầu châu Á, cũng là giải đua xe có tính quốc tế, diễn ra ở độ cao nhất so với mực nước biển. Người ta đã lấy hồ Thanh Hải sóng biếc vô tận, hàng đàn chim mòng biển tung cánh làm trung tâm. Suốt đường đua, những tay đua tư thế ngông nghênh cuồng ngạo, tựa như đang đấu một trận thư hùng với dũng sĩ cao nguyên. Phong cảnh tráng lệ, hào hùng ấy đã mang đến cho thảo nguyên vốn chỉ dành chăn thả gia súc này một phong thái quyến rũ khác biệt. Đi men theo bờ hồ, chúng ta còn có thể thu nhặt được biết bao tiếng cười vui hớn hở còn vương vãi của mọi người chứng kiến.
Dừng bước chân tìm kiếm, đau đáu ngắm nhìn mặt hồ nước dưới trời xanh vực tuyết. Hồ Thanh Hải, ngươi trong vắt như thế, lại giàu có biết bao. Hành lý giản đơn trên vai này, làm sao để nhét vừa được ngươi trong đó? Có lẽ, chỉ có một trái tim trong sáng, khoáng đạt vô cùng mới có thể cất giấu và chứa đựng được ngươi.
Vậy thì, hãy cất đi sự thuần tịnh xanh biêng biếc này của hồ, cất đi sự hạnh phúc chất phác này của cao nguyên. Để nhiều năm về sau, ta mãi mãi không thể nào quên được vẻ đẹp của hồ Thanh Hải.
Namtso thiêng liêng, thuần khiết
Từ biệt hồ Thanh Hải thanh tịnh, tôi đi tìm một hồ đẹp khác trên cao nguyên. Ánh dương thật là linh diệu, chỉ cần cưỡi một làn gió mát bay bổng là có thể xuyên qua tầng mây vạn dặm, bay khắp tuyết chiều ngàn non. Đến với Namtso thiêng liêng và thuần khiết. Hồ nước này là ký ức trong vắt mà năm tháng đã để lại cho Thiên Sơn.
Namtso nằm giữa huyện Bàng Ngạch và huyện Đương Hùng, phía bắc Lhasa (Lạp Tát), đích xác ở phía bắc ngọn núi chính của cao nguyên Thanh Tạng – núi Niệm Thanh Đường Cổ La, cách Lhasa 240 kilômét, là hồ thiên nhiên cao nhất thế giới so với mực nước biển. Hồ Namtso thần kỳ xiết bao, mới đây vẫn còn đang thưởng ngoạn phong cảnh hiện thực, chỉ một sát na, đã chìm vào trong giấc mộng xanh thẳm của hồ. Nhấn chìm sinh mệnh trong đó, cảm nhận được màu xanh thẫm thanh tịnh, màu xanh sa-phia cao quý, màu xanh ngắt buồn bã của nước hồ. Người ta e dè chỉ cần vô ý xông vào, là sẽ khuấy động giấc mộng u tĩnh của hồ Namtso, mà không hay biết rằng, giấc mộng ấy đã sớm nâng niu chúng ta.
Những ngọn núi tuyết trắng nhấp nhô nối tiếp như mộng như ảo, trong mỗi một khoảnh khắc sinh động, chúng đều biến thành những phong cảnh khác nhau. Dùng ánh mắt để nắm bắt vẻ đẹp muôn vàn hình thái, trong tích tắc chớp mắt, phong cảnh đã có thể tràn ngập tâm hồn ta, khiến những người đến nơi này đều không muốn bỏ lỡ bất cứ điều nhỏ nhặt gì. Từng chiếc lều vải giăng giăng dưới bầu trời xanh bao la, những làn khói xanh vẩn vơ bay lên từ đỉnh lều đều kể với chúng ta rằng mảnh đất thanh tịnh này thực ra đang dấy lên và tỏa ra thứ khói lửa giản dị nhất của chốn nhân gian.
Vào mùa đông, tầng băng dày nặng nề kết lại chắc chắn bên bờ hồ, nhưng nước hồ vẫn chảy dào dạt như trước. Thiên hồ[11]thần thánh, trong sạch tựa như đang nhắc nhở, ở nơi này đã cất giữ biết bao câu chuyện thần thoại ly kỳ mà tươi đẹp. Ngọn gió thổi lướt qua, bị những truyền thuyết mà nước hồ lưu lại làm cho run rẩy, lặng lẽ kể câu chuyện bãi biển nương dâu của chúng. Mà hết thảy những gì những câu chuyện này gửi gắm, đều là chủ đề tốt lành, bình an và hạnh phúc.
[11] Trong tiếng Tạng, Namtso có nghĩa là hồ thần, hồ thiên đường (thiên hồ) hoặc là hồ thiêng.
Nhờ vẻ đẹp tao nhã của truyền thuyết, sự thiêng liêng của nước trời đã khiến cho hồ Namtso có sinh mệnh, có tình cảm. Mỗi dịp đến năm con Dê, chư Phật, Bồ Tát, thần hộ pháp đều tụ hội ở hồ Namtso, lập đàn pháp hội Đại Hưng. Lúc này, đi quanh hồ đọc kinh một lần, còn hơn cúng bái hàng ngàn hàng vạn lần lúc bình thường. Các tín đồ hành hương không quản gian khổ, từ những miền đất khác nhau, trèo đèo lội suối vượt thác vượt đèo đến đây, chỉ vì muốn mượn nước từ bi của hồ thiêng để rửa trôi những bệnh tật và khổ nạn, cầu được viên mãn phúc huệ. Lá cờ phướn ngũ sắc phấp phới trong gió khắc ghi sự hiện hữu chân thật của khoảnh khắc này. Gò Mã Ni bên hồ Namtso như thể lĩnh pháp chỉ của Phật tổ, dùng linh hồn để bảo vệ sự thiêng liêng này. Tín ngưỡng của các tín đồ cũng giống như những tảng đá bên hồ, đều rót vào hồ thiêng, làm cảm động chính bản thân, cũng làm cảm động người khác.
Sóng biếc xao động chậm rãi kể một câu chuyện tình lãng mạn. Chuyện kể rằng, Namtso là con gái của Đế Thích Thiên, là vợ của Niệm Thanh Đường Cổ La. Họ sống bên nhau tại Thiên Sơn, từng có một khoảng thời gian sống chết có nhau giữa nhân gian. Non và nước giao hòa, nước và non trùng điệp, tựa như đôi đá vợ chồng đứng sừng sững bên hồ đó, đôi bên nặng tình với nhau. Có lẽ, họ không nhớ nổi rốt cuộc đã ở bên nhau bao lâu, cùng nhau ngắm bao lần mặt trời mọc rồi lại lặn, biết bao người đến rồi lại đi. Không thể non hẹn biển, nhưng lại có thiên đường địa cửu. Bên hồ còn có một tảng đá hình hai bàn tay chắp vào nhau, là để cầu phúc cho vạn vật, cầu phúc cho người dân đời đời sống bên hồ Namtso, cũng như cầu phúc cho mỗi khác qua đường đến với Namtso.
Mặt hồ dưới ánh hoàng hôn, lúc này sóng biếc xanh lam đã nhạt nhòa, ánh sáng vàng lấp lánh phản chiếu, như ánh sáng từ bi, ánh sáng cát tường phát ra từ giữa khoảng mày mi của Phật tổ, vô tư chiếu rọi khắp non sông trời bể. Những người tắm trong thứ ánh sáng đó đang tận hưởng sự bình đẳng và nhân hậu mà tự nhiên ban cho.
Namtso tựa như một chiếc bình ngọc rơi xuống Tuyết Sơn xa xôi, khí chất lóng lánh mà nó tỏa ra làm khuấy động nội tam, khiến con người ta không kiềm được ham muốn cất giữ sự thiêng liêng, thuần khiết này cho riêng mình. Xưa có một ni cô đến lấy nước đã cúi xuống, dùng chiếc vò trong tay múc đầy linh tính của nước hồ, chứa hết sự thanh tĩnh của sinh mệnh, và đón nhận thời gian của ý Thiền. Đây là một quá trình hướng Thiện, giống như thuyết nhân quả của Phật gia. Lão ni lấy nước xong, lưng đeo vò nước, mỗi bước lại ngoái đầu nhìn lại, ánh mắt ẩn chứa Thiền cơ đó bộc lộ sự xót thương đối với chúng sinh, lại vừa chứa đựng sự ung dung ta và vật cùng quên lãng lẫn nhau. Cái để lại cho chúng ta, chỉ là một bóng dáng đã rời xa, một vệt ánh sáng bồ đề.
Vậy thì, trước lúc từ biệt hồ Namtso, bạn hãy múc đầy một bình nước hồ đi! Tương lai, cho dù là để uống hay là giấu kín, đều biết rằng, hồ nước tuyệt đẹp này chảy giữa trái tim, có thể tưới tắm cho linh hồn, thanh lọc nhân sinh.
Cửu Trại Câu thần kỳ
Hãy đi đến Cửu Trại Câu theo cách này: đi từ chốn hồng trần sâu nhất, đến giữa hồ nước xanh thẳm, diễn lại một câu chuyện thần thoại tươi đẹp. Bước lên bậc thang của thời gian, ánh mắt sẽ đậu xuống hồ Thiên Nga. Mặt hồ trong vắt như gương sáng, mỗi người đều có thể soi thấy bản thân chân thực trong đáy tim mình. Ở nơi đây, chúng ta quên đi nhân gian đầy khói lửa cùng hết thảy tôn quý lẫn vinh hoa của hồng trần. Chúng ta giống như những chú chim, ấm áp quần tụ bên nhau khi dừng bay, và mỉm cười tạm biệt khi khởi hành một chuyến đi xa.
Tất cả mọi kiếm tìm, đều là để đến được một nơi trong sạch của cuộc sống. Những mặt hồ tụ tan ẩn kín sau chốn rừng xanh sâu thẳm, tựa như những ngôi sao ban sớm sáng bừng giữa dải Ngân Hà. Mà những hồ nước này hoặc long lanh, hoặc kỳ ảo, hoặc trầm tĩnh, hoặc mỹ lệ, chính là những ngôi sao rơi lạc trên Cửu Trại Câu. Bố cục ấy phảng phất như tuân thủ theo tinh tướng[12]và cũng đóng khung trong tâm can con người. Những hồ nước ấy gìn giữ lãnh địa của riêng mình, rõ ràng và minh bạch, không để cho bất cứ người nào bước vào mà bị mất phương hướng.
[12] Tinh tướng: Số tử vi.
Cho dù là Hùng Miêu Hải (hồ Gấu Trúc) ở giữa biển cát xanh lục, hay Ngưu Tê Hải (hồ Ngưu Tê) đa sắc thần kỳ, hoặc sông Khổng Tước hoa lệ chảy qua sạn đạo[13], đều là những kỳ quan thần kỳ mà năm tháng ban tặng cho Cửu Trại Câu. Những ngôi sao sâu thẳm mênh mang này, không hề ẩn chứa bí mật, mà là phong cảnh của tạo hóa thiên nhiên.
[13] Sạn đạo: Là đường xây bằng cầu treo hoặc ván gỗ xếp hai bên sườn núi đá, dùng để đi qua các khu vực núi non hiểm trở.
Chúng ta đem linh hồn giao cho hồ nước của Cửu Trại Câu, không cần lời hẹn thề như non xanh, cũng không cần sự chứng giám của mây trắng. Thực ra, sinh mệnh vốn là một câu đố, mà chúng ta lại không nhất thiết phải dò đoán lời giải cuối cùng ngay từ khởi đầu của chuyến đi. Chỉ cần thuận theo những vết hằn của năm tháng, lấp đầy quá trình dài lâu, để hoàn thành sứ mệnh mà cuộc sống đã giao cho. Vậy thì, cho dù nhỏ nhoi như một cây cỏ, một con kiến, một hạt bụi trần, đều có thể hiểu thấu chủ đề của cuộc đời.
Phải có cõi lòng bao la như thế nào mới có thể chứa hết được quần thể hồ bày bố như bàn cờ của Cửu Trại Câu. Nếu nói những hồ đặt tên bằng tên động vật là những vì sao rải rác trong sông Ngân Hà, thì những hồ đặt tên bằng tên thực vật lại chính là những bức tranh sắc màu sặc sỡ. Chúng dùng tâm tình đượm sắc tô điểm cho ký ức của tháng năm. Chúng nạm vào nước hồ những câu chuyện hoa nở hoa tàn, những gặp gỡ bèo tụ bèo tan nơi trần thế.
Dưới ánh nắng vàng ruộm, hồ Hoa Hỏa (hồ Đốm Lửa) lấp lánh sóng bạc, những ngọn sóng xô đẩy xao động thời gian, lá phong rực màu rụng lả tả trên mặt hồ, thắp sáng ngọn đèn mùa thu. Nơi đây như một mộng cảnh lung linh, lại có thể bất chợt nghe thấy tiếng thở khe khẽ của bên trong tĩnh lặng. Những thân lau sậy đung đưa trong gió, tựa như những cụ già đã trải qua biết bao sương gió, khiến cho những dòng sông nước chảy trong vắt quanh co cũng đượm biết mấy mùi vị thâm trầm của thế gian. Núi xanh biêng biếc, một vùng trúc xanh mơn mởn, soi bóng xuống hồ, tạo thành hồ trúc tĩnh lặng tự nhiên. Lúc bấy giờ, chỉ muốn chặt trúc làm sáo, dùng âm điệu du dương thổi nên một khúc tâm tình trống trải như sơn cốc, và cũng thổi nên âm điệu trong vắt trăm chuyển ngàn hồi.
Ánh mắt dừng lại trên những trại ấp giữa sơn cốc, dừng lại trong những nhà xay bột bên dòng nước, những kinh đồng[14] chuyển động, những lá phướn phất phơ, khiến bạn quên mất những ngày tháng tiên cảnh nhân gian. Nuôi dưỡng tuổi xuân trong nước, đợi đến khi rời đi, lại vớt lên, tuổi xuân ấy vẫn biếc xanh như khi ta mới đến.
[14] Còn gọi là chuyển kinh đồng, chuyển kinh luân, là pháp khí của tín đồ Phật giáo.
Lựa chọn trôi chảy như nước, cũng như thời gian đã đi qua thì sẽ không quay đầu lại. Thể nghiệm và lĩnh ngộ nhân sinh trong nước, còn sinh mệnh đã được nước thanh lọc, trở nên trong sạch. Những thác nước như những chiếc rèm ngọc buông lơi của Cửu Trại Câu cuộn tung sóng trào trong dòng chảy nhân sinh, biến ảo thành những gió mây hào sảng khẳng khái của tự nhiên.
Cho dù là thác nước từ trên trời đổ xuống Nặc Nhật Lãng, hay là dải lụa trắng như châu như ngọc Trân Châu Than, đều tự chìm đắm trong cách tuôn trào của mình, dường như chúng phải chìm đắm trong cách tuôn trào của mình, và dường như chúng phải dốc hết nhiệt tình vốn có để chinh phục năm tháng thời gian. Tư thế vút bay của những thác nước ấy, tựa như lãng tử áo trắng múa kiếm, hoa kiếm lay động, có thể chém vụn hết thảy hoa lệ của thế gian; lại tựa như nhã khách gẩy đàn, dây đàn rung lên, có thể xuyên thấu ngàn vạn mê lầm của thế sự.
Bạn hãy mượn hồ nước Kính Hải để trấn tĩnh lại mọi tâm tình xáo động. Hồ nước này hội tụ tất cả vẻ đẹp vô cùng vô tận của Cửu Trại Câu. Nó dung nạp tất cả núi tuyết, rừng xanh, trời biếc, mây trắng, chim bay, cá lượn vào trong, và lưu giữ hết thảy tốt tươi khô héo của tự nhiên, chìm nổi vinh nhục của nhân thế nơi này. Há chẳng phải nuóc hồ này mềm dịu và trong vắt, cũng có thể chảy xuyên lòng ngực của chúng ta, soi chiếu tâm linh của ta, và đủ cho chúng ta uống thỏa thuê hết cả một đời này hay sao?
Rất nhiều phong cảnh đẹp lại luôn ở bờ bên kia. Khi ấy, bạn đứng giữa khung cảnh này, nắm bắt được sự chân thực linh diệu mà huyền bí. Nước hồ của Cửu Trại Câu trong vắt như thế, không phải mưa cũng chẳng phải sương; nước hồ của Cửu Trại Câu cũng mông lung như thế, lúc xa xôi lúc lại thật gần. Khi vạn vật tụ hội, chúng ta vẫn chọn lựa tiếp tục bước đi như trước. Non nước khi đó đã trải qua một cuộc kiếm tìm trong cuộc đời, hàm chứa ý nghĩa sâu xa của việc xuân cấy thu gặt[15].
[15] Xuân cấy thu gặt: Thành ngữ, nghĩa chỉ việc làm bây giờ sẽ cho báo đáp, kết quả sau này.
Đường đến cũng là nẻo về. Trong hồ, một khóm rong rêu đung đưa dưới nước, nó đang kể chuyện trong ánh nắng ấm áp, và nó không dễ dàng nói lời ly biệt với bất cứ khách qua đường nào.
Quyển thứ năm: Sóng nước trong mộng
Mỗi người đều có một vùng sông nước trong mộng, vùng sông nước này chính là Giang Nam. Có lẽ Giang Nam níu giữ bạn chỉ bằng một ngọn sóng, một mảnh hồi ức, một gốc cây cảnh. Nhưng sự hiện diện của bạn, đều là vì mốt duyên tình không dứt từ kiếp trước. Không quên nổi con thuyền nhỏ mui đen đó, không quên nổi ngày hôm qua xuân sắc khắp thành vào thời Tống đó. Đây là nơi hễ bạn đã bước vào thì không gì chia cắt nổi, khiến bạn từ một người khách qua đường biến thành một người quay trở về. Đã nói, nhất định phải gom góp một quãng thời gian của vùng sông, nước trong một quán trà cũ kỹ, lặng lẽ chờ đợi, không gặp không về.
Ký ức sông nước
Người ta nói sông nước Thiệu Hưng là một dòng sông, bạn đứng ở bên bờ đá xanh, muốn qua sông, chỉ có cách ngồi lên thuyền nhỏ mui đen mới có thể đi qua. Bất cứ phương thức nào khác đều không thể thực sự đưa bạn vào giấc mộng sông nước. Dòng sông mang đậm phong cách cổ xưa của Giang Nam, sẽ thanh lọc sạch sẽ cõi lòng đầy mây khói phù hoa của bạn, gạt bỏ mọi bối rối của khách qua đường là bạn, mang đến cho bạn hơi ấm của người trở về. Lội nước mà đi, trong sương khói mờ mịt bao trùm sông nước, phong cảnh hai bên bờ sẽ làm ướt đẫm áo khăn của bạn, mà sau đó, lại từ từ thẩm thấu vào tận sâu thẳm linh hồn bạn.
Mái chèo khua qua ký ức cổ xưa của Thiệu Hưng, những sóng nước nhẹ nhàng lan tỏa sẽ trùng phùng gợi mở những sự tình mà bạn đã quên lãng hay đóng kín. Những khoảnh khắc từng khắc sâu tâm khảm vốn đã nhạt nhòa, mà giờ đây, từng chi tiết mơ hồ lại trở nên sống động, sắc nét. Phong cảnh cổ kính khóa kín mọi nét hoa lệ của thế gian, khiến bạn có thể thưởng ngoạn mây trôi gió vờn ngay từ những dấu tích đã xanh rêu. Ở vùng sông nước không có điêu khắc, không thấy trang hoàng, và đâu đâu cũng là nên thơ tự nhiên này, rất nhiều cuộc đời tối tăm, trong một sát na, đã trở thành linh hồn sống động.
Men theo những cảnh trí thơ mộng, thanh tân, linh khí từ xa đến gần tựa như một cơn gió nhẹ ùa đến, lịch sử từ cổ đến kim cũng như một cuốn cổ thư từ từ mở ra. Vô vàn nhân vật, sự tình của vùng sông nước chưa từng được thống kê một cách tỉ mỉ, đã lọt vào giữa năm tháng cuồn cuộn như nước trào, bởi vì chỉ có đi xuyên qua thời gian mưa khói hàng ngàn năm, mới có thể thực sự nắm bắt được những câu chuyện chìm sâu trong dòng nước Thiệu Hưng.
Những thứ đã xa nay quay trở lại, lịch sử như một tấm gương đồng han gỉ, treo trước song cửa sổ vùng sông nước, trong những ngày tháng sắc nhọn, để lộ ra chiếc bóng tang thương của mình. Vua Đại Vũ đã từng trị thủy cứu dân đen nơi đây, Việt Vương Câu Tiễn đã từng nếm mật nằm gai trên mảnh đất này để giành lại thiên hạ. Ai đã có mối tình bi thương không lời ở vườn Thẩm đó, còn có chuyến du hành hoài niệm chuyện cũ người xưa như văn hào Lỗ Tấn? Thậm chí, khi bạn hít thở, mùi thơm của mực trong bức “Lan đình tập sự” của Vương Hy Chi còn làm bạn nghẹt thở đến mức không dám thả trôi dòng suy tưởng, thứ mực nước nghìn năm ấy đã tẩy nhãn tịnh tâm cho bạn, lọc tẩy hết thảy những nóng vội của con người, chỉ giữ lại một khoảng trời trong vắt.
Là một người có tâm trí trong sáng, bạn có thể du ngoạn trong không gian đơn sơ phóng khoáng của lịch sử, mơ mộng trong phong cảnh tú lệ của sông nước, không cần lo lắng bị thế sự phồn tạp ngăn cản, không cần tính toán những tình cảm chua xót vây cuốn. Bạn nhắm mắt lại, cảm nhận vẻ đẹp đắm say của sông nước, bạn mở mắt ra, ngọn gió xuân dịu dàng ấy đã lặn sâu trong linh hồn bạn, nói với bạn rằng, phút giây này, cuộc sống thật mới mẻ và chân thực xiết bao.
Chiếc thuyền mui đen nho nhỏ chảy xuôi theo dòng, ngước mắt lên rồi dựa cửa sổ để ngắm nhìn Giang Nam tươi đẹp, gặp gỡ trong phút giây đã đủ níu kéo tuổi xuân và mộng tưởng mà gió bụi từng che lấp. Thời gian tựa như một lưỡi dao sắc lẹm, cắt đứt tuổi hoa xanh biêng biếc, và cũng có thể cắt đứt ký ức sâu thẳm, giải phóng những suy nghĩ bị giam cầm. Những câu chuyện cũ từng bị tuế nguyệt hong khô đã bắt đầu ướt đẫm, dưới ánh dương rực rỡ sáng lòa, chúng lại mang hơi ấm của tháng ngày.
Khi bạn tán thưởng phong tư dịu dàng yểu điệu của các giai nhân Giang Nam, sao không nhớ tới người hồng nhan cân quắc chẳng kém đấng mày râu ấy? Trong thời đại mây đen ngập lối đó, một câu “Thu phong thu vũ sầu sát nhân” (Gió thu mưa thu buồn đến giết người) của Thu Cẩn[1] đã vạch thẳng sự đen tối của thời đại, đến nay vẫn còn được hậu nhân truyền tụng không quên. Thân là nữ nhi, bà hành tẩu trên đoạn đường đầu của cách mạng, rong ruổi giang hồ, cưỡi sóng đạp gió. Cuối cùng máu nhuộm Hiên đình, xương vùi Tây lãnh, sự tích lẫy lừng đó đã làm xúc động tâm can con người mọi thời đại.
[1] Thu Cẩn (1875-1907), chí sĩ cách mạng dân chủ cận đại của Trung Quốc, tên gốc là Thu Khuê Cán, tự Toàn Khanh, hiệu Nhật Ngô, nhũ danh là Ngọc Cô, sau khi sang Nhật đổi tên là Thu Cẩn, tự xưng là Giám Hồ nữ hiệp, bút danh Thiên Thu. Thu Cẩn quê Sơn Âm Chiết Giang (nay là Thiệu Hưng), sinh ở huyện Mân, tỉnh Phúc Kiến (nay là Phúc Châu), coi thường lễ giáo phong kiến, đề xướng nam nữ bình đẳng, tính tình hào sảng, văn ôn võ luyện, từng du học tự túc ở Nhật Bản, về sau tham gia các tổ chức cách mạng như Tam Hợp hội, Quang Phục hội, Đồng Minh hội… Năm 1907, bà cùng bọn Từ Tích Lân tổ chức Quang Phục quân, đồng khởi nghĩa ở Chiết Giang, An Huy ngày mùng 7 tháng 6. Sự việc bại lộ, bà bị bắt. Ngày 15/7, bà bị xử tử ở Hiên Đình Khẩu, Chiết Giang. Thu Cẩn là hình mẫu của nữ chiến sĩ cách mạng trong tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn.
Hồn phách trầm tĩnh như nước thu đó liệu có nhìn thấy vầng trăng sáng đầu tiên của đất nước Trung Quốc mới hay không? Hiệp khách chân chính, kiếm còn chưa rút, thì sự sắc bén đã làm kinh hãi thế gian, người nữ nhi nổi danh Giang Nam này quả thực có khí phách cưỡi gió vạn dặm, xông thẳng tầng mây. Khi bạn đang say đắm trong sự nên thơ của khung cảnh cầu con nước chảy, thì vẫn có một mặt hồ trong tâm hồn, sóng vỗ xô bờ, xao động mãi không thôi.
Di chuyển trên sông nước khó tránh khỏi bị ướt, hơi lạnh thấm buốt cõi lòng. Chọn một bờ bên để lên, đi trên con đường lát đá, những phiến đá bị thời gian mài mòn thành trơn bóng, bạn xóa đi những bụi phấn mà người đi trước còn lưu lại, còn những trần ai mà bạn để lại, sẽ lại có người khác xóa mờ giúp bạn. Trong lúc vô tình, những giọt nước từ những giò lan u tĩnh treo lên ban công tí tách nhỏ xuống, làm ướt tóc bạn, nhưng lại thoang thoảng mùi hương xao động tâm hồn.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian